......::::::: DIỄN ĐÀN LỚP 11LTBC - RTC2-VOV:::::::..........
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

......::::::: DIỄN ĐÀN LỚP 11LTBC - RTC2-VOV:::::::..........

.........::::::ĐOÀN KẾT-TỰ TIN-CHIỀN THẮNG:::::::.........
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 52
Join date : 16/08/2010
Age : 35
Đến từ : Bến Tre xứ dừa

KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH  Empty
Bài gửiTiêu đề: KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH    KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH  I_icon_minitimeFri Aug 20, 2010 10:28 pm


1. Khái niệm về kịch bản
Kịch bản bắt nguồn từ tiếng La tinh csenario, có nghĩa là văn bản kịch
hoặc văn bản viết có tính kịch dùng để chỉ một bộ phận cấu thành rất quan trọng
của tác phẩm văn học, điện ảnh hay truyền hình. Theo từ điển tiếng Việt do
Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã hội định nghĩa: “Kịch bản- đó
là vở kịch ở dạng văn bản”.
Tuy nhiên, nếu đưa ra khái niệm này vào các dạng kịch bản văn học, kịch
bản điện ảnh và kịch bản truyền hình, thì việc giải nghĩa trên đây là chưa thật
đầy đủ, đặc biệt đối với kịch bản truyền hình.
Thuật ngữ kịch bản tồn tại đã lâu. Từ dùng để chỉ một chương trình đã
được phác thảo hoặc bản tóm tắt của một tác phẩm kịch. Nó được hiểu như một
bản miêu tả sơ lược trật tự các lớp của của vở diễn. Bản thân từ “Senari” xuất
hiện thuật ngữ sân khấu “Senarius”, chỉ người đứng sau sân khấu chỉ đạo cho
các diễn viên bao giờ đến lượt họ ra biểu diễn, đồng thời theo dõi để những
hành động diễn ra kịp thời, đúng lúc.
Để tồn tại với một diện mạo phong phú và cách thức ứng dụng linh hoạt
như hiện nay, kịch bản đã có một lịch sử về nguồn gốc của nó. Kịch bản xuất
hiện cùng với sự ra đời của loại hình sân khấu kịch, cũng có thể coi nguồn gốc
của nó là kịch bản văn học. Người viết kịch bản phải biết xuất phát từ những sự
đối lập đang âm ỉ hay đã vùng trỗi dậy trong hiện thực đời sống để sáng tạo
những tình huống xung đột vừa khái quát, vừa cụ thể. Trải qua nhiều bước kế
thừa và phát triển, kịch bản dần dần đã có sự biến hoá linh hoạt để thích ứng với
từng loại hình sáng tác. Lịch sử loài người là lịch sử của những kế thừa. Điện
ảnh ra đời là sự kế thừa của nhiếp ảnh, sân khấu, văn học, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc; còn truyền hình là sự kế thừa từ điện ảnh và báo chí. Như vậy, sự ra
đời của các dạng kịch bản đều là một sự phát triển có tính kế thừa, tính chọn lọc
trên cơ sở đặc thù riêng của mỗi loại hình.
Mỗi loại hình văn học nghệ thuật, điện ảnh hay truyền hình (có thể coi
truyền hình cũng là một loại hình mang tính chất nghệ thuật, bởi truyền hình là
sự kết hợp của điện ảnh và báo chí) đều có những đặc thù riêng, đặc trưng và
tính chất riêng. Vì thế, khái niệm kịch bản đi vào từng loại hình được “biến
hoá” sao cho phù hợp với những tính chất đặc trưng riêng của nó. Do đó, nó có
nhiều hình thức biểu hiện đa dạng chứ không phải chỉ là vở kịch ở dạng vản
bản, vấn đề này chúng tôi xin đề cập phân tích ở những phần sau.
Các loại kịch bản khác nhau như vậy liệu có thể gọi chung từ gốc “kịch
bản” trong kịch bản văn học, sân khấu, điện ảnh truyền hình được hay không.
Tại sao gọi chung là kịch bản nếu giữa chúng không có nét gì chung. Điểm
chung, nét chung nhất của các loại kịch bản này là gì? Đó là tác dụng, vai trò,
chức năng của kịch bản.
So với các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, thơ văn, âm nhạc,
một đặc trưng là từ khâu ý đồ sáng tác đến hoàn thành tác phẩm có thể hoàn
toàn do công lao của người nghệ sỹ, cá nhân người nghệ sỹ. Đó là những sáng
tạo “âm thầm” của mỗi cá nhân nghệ sỹ với biến động cuộc đời. Trong khi đó,
sân khấu (kịch nói, kịch truyền thống), điện ảnh, lại là một nghệ thuật tập thể có
sự đóng góp của diễn viên, tác giả kịch bản, hoạ sỹ trang trí, nhạc sỹ, người làm
công tác hậu trường...dưới sự điều khiển của đạo diễn. Tác phẩm truyền hình
cũng là kết quả góp sức của tập thể đạo diễn, biên tập, cộng tác viên, kỹ thuật
viên, quay phim... Người tham gia làm ra sản phẩm đều phải tập trung góp phần
tạo ra sản phẩm hay nhất, tốt nhất. Đối với tính chất làm việc tập thể này, sự có
mặt của một kịch bản hết sức có ý nghĩa. Kịch bản trước hết vạch ra “đề cương”
tác phẩm, thứ hai, kịch bản đóng vai trò như một yếu tố liên hệ giữa những cá
nhân có liên quan đến công việc, liên hệ giữa yếu tố kỹ- nghệ thuật, thống nhất nhất hành động, các phương tiện biểu hiện ăn khớp bổ trợ cho nhau tạo nên một
chỉnh thể, một tác phẩm hoàn hảo.
Kịch bản là một vở kịch, một bộ phim, một chương trình được phác thảo,
mô hình hoá, trên văn bản với tư cách là một đề cương, hay chi tiết đến từng
chi tiết nhỏ (tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại hình), là cơ sở chính cho “tập thể tác
giả” làm nên, hoàn thiện tác phẩm của mình.

2, Nguồn gốc kịch bản
Theo định nghĩa trên đây kịch bản là “một vở kịch dạng văn bản”, kịch
bản ra đời cùng với sự xuất hiện của loại hình kịch (hay phương thức kịch).
“Kịch thường được hiểu vừa theo nghĩa là một loại hình nghệ thuật sân
khấu, vừa có nghĩa là một kịch bản văn học”.
Như vậy nguồn gốc của kịch bản là kịch bản văn học. Nghiên cứu kịch
bản văn học qua phương thức kịch. Là một thể loại văn học nằm trong thể loại
kịch, tác phẩm kịch nói chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên
sân khấu. Kịch cũng là một loại hình sân khấu. Sau lao động của nhà văn
(người sang tác kịch bản văn học) là chặng đường sáng tạo thứ hai của đội ngũ
nghệ sỹ sân khấu gồm đạo diễn, diễn viên, nhạc sỹ, hoạ sỹ. Bằng những ưu thế
riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí...họ đã tái hiện sinh động, trực
tiếp nội dung của kịch bản văn học trên sân diễn.
Không phải bất cứ một kịch bản văn học nào cũng có điều kiện được
dàn dựng trên sân khấu. Kịch bản văn học có đầy đủ những đặc trưng riêng
trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ
thuật nên người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch
bản văn học. Khác với kịch múa, kịch hát, kịch sân khấu truyền thống (như
chèo, tuồng, cải lương)... là những loại hình chỉ có thể thưởng thức được nếu
chúng được trình diễn trên sân khấu, bởi lẽ, phương tiện biểu hiện chủ yếu của
những loại hình này mang tính đặc thù cao: những động tác múa nếu đó là kịch múa, là làn điệu đó là kịch hát. Tuy nhiên, kịch bản không thể thay thế và bộc lộ
được đầy đủ vẻ đẹp của một tác phẩm kịch như được trình diễn trên sân khấu.
Các nhà viết kịch nổi tiếng thế giới như Molie, Secxpia hay những nhà văn
chuyển thể từ tác phẩm văn học sang kịch bản văn học như Gôgôn, Ôxtơrôpxki,
Sêkhốp, Gorki... đều thừa nhận mối liên hệ mật thiết giữa kịch bản văn học với
bộ môn nghệ thuật sân khấu, trong đó kịch bản văn học là linh hồn, là cái gốc
của sự thành công. Vì thế việc tìm hiểu đặc trưng của thể kịch bản văn học theo
hướng tiếp cận từ phía sân khấu là hợp lý.
Cũng như các loại hình sân khấu khác, đặc trưng của kịch không thể
thoát li khỏi những điều kiện sân khấu và giới hạn về mặt không gian, thời gian,
khối lượng sự kiện, số lượng nhân vật. Tác phẩm kịch không chứa một dung
lượng hiện thực lớn, bề bộn như tiểu thuyết, cũng không lắng lại trong những
mạch chìm của cảm xúc như thơ trữ tình. Gạt bỏ đi tất cả những rườm rà, tản
mạn, không phù hợp với điều kiện sân khấu, kịch lựa chọn những xung đột
trong đời sống làm đối tượng mô tả.

3, Những đặc trưng và yếu tố của kịch
3.1, Xung đột kịch
Cũng là việc miêu tả những bức tranh sinh hoạt của đời sống xã hội,
nhưng không giống với thơ ca, tiểu thuyết, không gian và thời gian của một tác
phẩm kịch bị giới hạn, không có thì giờ rông dài để mạn đàm, giải thích, luận
bàn. Trong kịch hiện thực bị dồn nén. Cốt truyện phải có tính kịch.
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Bêlinxki đã nhận xét:
“Tính kịch được bộc lộ bằng sự va chạm, xô đẩy giữa những tư tưởng có
khuynh hướng chống đối và thù địch nhau”.
“Nếu hai người tranh cãi nhau về một vấn đề gì đó thì ở đây không có
kịch và cũng không có yếu tố kịch, nhưng khi người ta cãi nhau mà người này
muốn trội hơn người kia cố sức đánh vào mặt nào đó của tính cách, đánh vào những điểm yếu rồi thông qua đó mà biểu lộ các tính cách trong cuộc cãi nhau
làm cho có quan hệ mới đối với nhau, thế thì đây đã là kịch rồi”.Tính kịch bộc
lộ qua những xung đột, mang sắc thái thẩm mỹ khác với những xung đột thơ và
tiểu thuyết. Đó là tính tập trung cao độ của xung đột kịch, sự chi phối trực tiếp
đến cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ vận động khác thường của cốt truyện, xung
đột là động lực thúc đẩy phát triển của hành động kịch, nhằm xác lập nên những
mối quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của tác
phẩm kịch.
Thiếu xung đột, tác phẩm sẽ mất đi đặc trưng cơ bản của thể loại và
không thể là một kịch bản văn học.
Để khám phá được vấn đề thuộc về bản chất của đời sống xã hội, người
viết kịch phải tạo được những xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Hiện thực là sự vận động đa chiều của các phạm trù thẩm mỹ (cái đẹp-cái
xấu; cái cao cả- cái thấp hèn; cái thiện – cái ác; cái tiến bộ – cái lạc hậu). Xung
đột kịch thường nằm ở thời điểm cao trào của sự vận động ấy. Từ những mâu
thuẫn tồn tại trong lòng hiện thực, người viết kịch bản phải tiến hành quá trình
chọn lọc, tổng hợp, sáng tạo nên những xung đột vừa mang tính chất khái quát,
vừa mang tính điển hình hoá.
Xung đột kịch có thể được biểu thị bằng mối xung đột giữa tính cách và
hoàn cảnh, giữa tính cách với tính cách hay trong bản thân một tính cách.
Tất cả đều phải đạt đến tính chân thực và điển hình. Thiếu ý nghĩa điển
hình, kịch bản văn học chỉ là sự mô phỏng những mâu thuẫn vụn vặt, tầm
thường của cuộc sống, thiếu ý nghĩa chân thực, kịch bản văn học chỉ là sự giả
tạo, là những dòng lý thuyết suông.

3.2, Hành động kịch
Trong đời sống hàng ngày, hành động là phương tiện bộc lộ rõ rệt bản
chất của từng người. Trong văn học, kịch là thể loại mang lại sự nhận thức thực tại thông qua hành động. Tuy nhiên hành động ở đây không chỉ là động tác, cử
chỉ của nhân vật mà là hành động trong mối tương quan với các yếu tố cấu
thành nên tác phẩm như xung đột cốt truyện và nhân vật, được thể hiện trong
kịch bản văn học.
Trong kịch, nếu xung đột là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phầm thì
hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm đó.
Xung đột là một quy tụ, chọn lọc và tổ chức hành động kịch, hành động
kịch là sự thể hiện trực tiếp nội dung của xung đột kịch, nhưng hành động là
yếu tố giải toả nội dung của xung đột ấy và nó là yếu tố đặc trưng không thể
thiếu đối với bất kỳ một kịch bản văn học nào. Hành động kịch thường phát
triển theo hướng thuận chiều của xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng thì
thiên hường hành động càng trở nên quyết liệt, làm tăng thêm sự hấp dẫn của
tác phẩm.
Hành động kịch là một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung
đột “các hành động vấp phải phản hành động thì phản hành động lại thúc đẩy
hành động” (Xtanilapxki). Cứ như thế, nội dung câu chuyện kịch vận động
nhanh tới kết thúc.
Do sự chi phối của sân khấu, cột truyện kịch thường rất chặt chẽ, tập
trung. Nó không dung nạp những chi tiết vụn vặt, những đoạn bình luận trữ tình
ngoại đề (khác với loại ca kịch truyền thống: thường xuất hiện đoạn trữ tình
ngoại đề qua các lời ca, tiếng hát) ngoài cốt truyện như trong mạch tự sự.
Cốt truyện bằng hành động xoáy vào trọng tâm xung đột bằng sự liên kết
theo một quy luật riêng: quy luật nhân quả (hành động này là kết quả của hành
động trước và lại là nguyên nhân của hành động sau). Theo hướng vận động đó
các cảnh, các màn, các hồi, các lớp liên kết chặt chẽ với nhau, loại bỏ những gì
thừa thãi, vượt đến đỉnh điểm của xung đột và hướng nhanh tới kết thúc.
Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là trục chính để xác định
tính cách của nhân vật. Nhân vật kịch luôn tự khẳng định bản chất của mình bằng hành động. Bản chất đố được thể hiện qua nhừng đằng xé dữ dội từ bên
trong và những hành động quyết liệt bên ngoài.
Do đặc trưng của thể loại, nhận vật kịch không được khắc hoạ tỉ mỉ nhiều
góc độ như nhân vật trong tác phẩm tự sự dài. Kịch là chộp những khoảng thời
gian trong cuộc sống có sự xuất hiện những xung đột gay gắt, nóng bỏng nhất
để phản ảnh cuộc sống trong tác phẩm. Vì thế nhân vật kịch hiện hình trong tác
phẩm vào đúng thời điểm “bước ngoặt số phận”. Sau khi xuất hiện, nhân vật
nhập ngay vào tuyến xung đột và bị cuốn nhanh vào guồng hành động của tác
phẩm. Mọi tình huống trong tác phẩm đều góp phần đắc lực để cho nhân vật
hành động. Tình huống kịch phải được khai thác tập trung, tiêu biểu của tính
cách kịch. Nhân vật kịch không có tính cách đa dạng nhưng lại có được những
đường nét nổi bật hơn và xác định hơn về mặt bản chất.

3.3, Ngôn ngữ kịch
Đối với một tác phẩm kịch tất cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều
nằm trong ngôn ngữ nhân vật. Đó chính là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn
ngữ kịch. Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ. Tác giả kịch
bản không chỉ đứng trong tác phẩm với tư cách là nhân vật trung gian, có thể
mách bảo, giải thích, thậm chí giật dây độc giả như trong tiểu thuyết. Tác giả
xây dựng nhân vật của mình chủ yếu bằng ngôn ngữ hội thoại, chứ không phải
bằng ngôn ngữ miêu tả. Qua ngôn ngữ hội thoại mà cốt truyện được thể hiện và
phát triển.
Khi tiếp xúc với kịch bản văn học, chúng ta thấy có những lời chú thích ít
ỏi của tác giả. Đó thường chỉ là những gợi ý cho phương pháp dàn cảnh, cách
bài trí sân khấu và diễn xuất của diễn viên. Nó sẽ được thay thế hoàn toàn bằng
nghệ thuật sân khấu khi kịch bản được trình diễn lúc ấy, nhân vật kịch sống
trước chúng ta bằng những lời lẽ đối thoại, kèm theo một ít độc thoại. Tuy
nhiên chỉ đối thoại hay độc thoại, trước hết đó là ngôn ngữ khắc hoạ tính cách. Mỗi nhân vật với một nguồn gốc xuất thân bản chất xã hội và một đặc điểm cá
tính riêng phải có một tiếng nói riêng thật phù hợp.
Ngôn ngữ kịch là một hệ thống ngôn ngữ mang tính hành động. Hệ thống
ngôn ngữ ấy có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao
tác, hành động. tính hành động của nhân vật kịch không chỉ bộc lộ trong hình
tượng sân khấu mà nó đã được hình thành ngay từ trong cấu tạo kịch bản văn
học. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đảm bảo cho sự phát triển đầy kịch
tính của cốt truyện và phân tích hành động theo kiểu dây chuyền của các nhân
vật kịch. Tính hành động là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch là cơ sở giúp
cho đạo diễn, diễn viên xử lý thích hợp cho hành động của nhân vật trên sân
khấu.
Một yếu tố cuối cùng cũng không thể thiếu đối với một kịch bản văn học
của một tác phẩm kịch đó là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần giũ với đời
sống, súc tích dễ hiểu và ít nhiều mang tính khẩu ngữ. Khác với hình thái ngôn
ngữ mang tính ước lệ; cách điệu trong ngôn ngữ truyền thống như tuồng, chèo
hoặc cải lương, ngôn ngữ kịch nói không sử dụng thứ ngôn ngữ xa lạ với đời
sống, ngôn ngữ hội thoại giản dị, tự nhiên, gần với cuộc sống thường ngày. Tuy
nhiên, sự giản dị tự nhiên ấy không mâu thuẫn với cách nói năng giàu ẩn ý và
mang tính hình tượng mà có ý nghiã triết lý sâu xa thường có và phải có trong
tác phẩm kịch. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tác phẩm kịch
phải đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. Mặc dù rất gần giũ với ngôn ngữ
nói hàngngày song tác phẩm kịch loại bỏ những lời lẽ thô thiển cũng như những
cách nói năng tự nhiên chủ nghĩa. Tài năng của một người biên kịch bộc lộ
ngay trong khả năng vận dụng tối đa sức mạnh đặc biệt của ngôn ngữ hội thoại
để cấu trúc tác phẩm và khắc hoạ hình tượng.

4, Kịch bản điện ảnh
4.1, Sự ra đời của điện ảnh


Thế kỷ XIX chẳng những mở rộng rất nhiều ranh giới của thế giới mà
còn đem lại cho loài người những phương tiện đầy hiệu lực để nhận thức thực
tiễn quanh họ một cách đầy khoa học. Tuy nhiên, việc nắm bắt thế giới trên cơ
sở khoa học đã không xác định được một cách chính xác trước sự phát triển
nhanh chóng của nghệ thuật cũng như nhận thức về nghệ thuật. Người nghệ sỹ
luôn nhận thấy những thiếu sót của các phương tiện mà họ sử dụng và cố gắng
tìm cách khắc phục những hạn chế do kỹ thuật dành cho loại hình nghệ thuật đó
gây nên. Chính việc khắc phục những trở ngại ấy đã làm nảy sinh những tác
phẩm nghệ thuật chân chính. Thế kỷ thứ XIX đã mở ra cho con người những
triển vọng phát triển mới và những chân trời mới thể hiện sự mong muốn từ lâu
của con người nhằm tạo ra những nghệ thuật có thể truyền đạt sự phong phú và
tính đa dạng của thế giới một cách đầy đủ và rõ ràng hơn bất cứ lúc nào trước
đây.
Ý muốn nhằm tiến tới sự hoàn thiện quá trình sáng tạo, tới việc khắc
phục sự thiếu sót của các phương tiện biểu hiện tất sẽ dẫn đến sự xuất hiện ước
mơ về một thứ siêu nghệ thuật nào đó có khả năng sử dụng mọi phương thức
tác động đến con người cả về thị giác lẫn thính giác, đủ bao hàm trong bản thân
nó tất cả các tác phẩm hội hoạ, âm nhạc, văn học cùng một lúc.
Ở thế kỷ thứ XIX, người ta chỉ thấy việc thực hiện lý tưởng đó ở nhà hát
mà thôi. Gớt đã miêu tả sự phong phú về tinh thần và tính đa diện về tình cảm
của môn sân khấu: “Bạn ngồi đó với đầy đủ tiện nghi y như một ông hoàng và
các vở kịch diễn ra ngay trước mắt bạn, tạo ra cho tình cảm của bạn và trí tuệ
của bạn tất cả những gì mà bạn mong muốn, ở đó vừa có thi ca, vừa có hội hoạ,
vừa có âm nhạc, vừa có nghệ thuật sân khấu rồi đủ tất cả, cái gì cũng có. Thế
rồi khi tất cả những nghệ thuật ấy với ước vọng của tuổi trẻ và vẻ đẹp cùng tác
động trong cùng một lúc và nhất là với một đội ngũ diễn viên hoàn hảo nhất thì
đó quả là mộy ngày hội chẳng có gì so sánh”, Belinxki cũng nhìn thấy ở nhà hát
một thứ nghệ thuật hoàn thiện nhất, gần gũi nhất đối với con tim chúng ta, bởi vì nó truyền đạt những ước mơ và việc làm của con người một cách chính xác
và toàn diện hơn cả. Xcriabia lại mơ ước về một nền “nghệ thuật vạn năng, kết
hợp được cả âm nhạc, hội hoạ, thi ca và múa”. Trong tất cả các quan điểm rất
khác nhau ấy của các nghệ sĩ, vẫn thấy có một quan điểm giống nhau đó là mơ
ước. Khái niệm về một nền nghệ thuật tổng hợp, nhất quán, có khả năng phối
hợp rộng rãi những phương tiện biểu hiện nhằm miêu tả thực tiễn một cách toàn
diện hơn, đầy đủ hơn.
Nghệ thuật điện ảnh chính là sự biểu hiện mơ ước ấy của các nhà thơ,
học sĩ, nhà phê bình của tất cả những ai luôn cảm thấy âm thanh của nhạc khí,
ngôn từ trên giấy và màu sắc trên vải sơn còn quá nghèo nàn, quá đơn điệu để
truyền đạt sự phong phú bề ngoài và bên trong thế giới con người.
Tuy nhiên, sự phát minh ra điện ảnh hoàn toàn không liên quan gì đến
nghệ thuật. Điện ảnh là do các nhà bác học chuyên nghiên cứu bản chất củạ sự
vận động phát minh ra và không hề có ý miệm tạo ra một màn biểu diễn mới
hay một phương tiện biểu hiện nghệ thuật nào hết. Nghệ thuật cũng không nằm
trong tầm quan tâm, chú ý của những người làm công tác kỹ thuật nhiếp ảnh có
ý muốn hoàn thiện nhiếp ảnh.
Đầu tiên chỉ là phát minh ra loại đồ chơi cơ khí prakximoxcop hay
zootrôp gây ra được ảo giác của sự chuyển động. Tiếp theo là việc chế tạo các
cỗ máy nhằm ghi lại hình ảnh chuyển động của các vật, con người và con vật.
Máy chiếu tạo nên những hình ảnh chuyển động trên mộy nền vải trắng là sự bổ
sung cho chiếc máy quay. Tuy nhiên các loại phát minh này đều không sống lâu
bởi sự thiếu hoàn thiện về mặt kỹ thuật, chất lượng chiếu hình thấp, phim luôn
bị rách, cấu tạo máy thiếu hoàn chỉnh. Công lao của hai anh em nhà Luymie là
họ đã làm cho các công trình dở dang của các bậc tiền bối trở thành hiện thực
và hoàn thiện hơn cùng với sự giúp đỡ của kỹ sư Cắcpăngchie, máy chiếu ảnh
của họ ra đời trong phim của Lumiere đã xuất hiện những cảnh sinh hoat,
những cảnh tượng ngộ nghĩnh, cảnh phố phường (tàu vào ga, khách bộ hành trên đường phố Paris) chứ không phải chỉ là những hình ảnh lặp lại những động
tác giống nhau của những hình thù nhỏ bé như những tiều phu đốn củi. Cô vũ
nữ leo dây…trong chương trình biểu diễn của những thước hình trong máy
Kinetoxcop (1894) trước đó. Các thước phim của Luymie thể hiện “cuộc sống
như chính nó có trên thực tế”. Người xem cảm thấy được tính tự nhiên của hình
tượng trên màn ảnh. Sự trung thành tuyệt đối của người làm phim đối với các
sự kiện, tính chân thực của việc miêu tả cuộc sống trên màn bạc. Bộ phim ngắn
“Tàu vào ga” chứa đựng cả những khả năng nghệ thuật khác. Cảnh tàu vào ga,
hành khách xuống tàu đi lại gần máy quay, người xem cảm thấy họ ở các cỡ
cảnh khác nhau, từ toàn cảnh đến cận cảnh. Khác hẳn với cảnh sân khấu, nhà
hát, không gian của màn ảnh thay đổi liên tục. Trước mặt người xem, lúc thì
xuất hiện một phần nào đó của vật thể, lúc thì lại toàn bộ vật thể đó. Đó là điểm
mới mẻ, là điểm xác định vẻ độc đáo của môn điện ảnh và nghệ thuật đặc trưng
của nó. Tờ “Bec-li-ne lo-ca-li an-vai- ghe (1986) viết: “đó là cuộc sống dầy đặc
được cảm nhận trong từng chi tiết đang diễn ra trước mặt chúng ta. Bất kể một
loại ảnh nào cũng đều là hình ảnh nổi hình của thiên nhiên, hình ảnh chân thực
đến từng chi tiết vụn vặt, khiến ta cảm tưởng như trước mặt ta là một thế giới
thực sự”. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự trình làng của điện ảnh. Còn để đi đến một
nghệ thuật điện ảnh đích thực phải trải qua những chặng đường dài: từ điện ảnh
chợ phiên đến điện ảnh nghệ thuật.

4.2, Đặc trưng của điện ảnh
Điện ảnh có sự khác biệt với các loại hình nghệ thuật khác như: Hội hoạ,
âm nhạc, điêu khắc. Bức tranh cổ “Cá chép ngắm trăng” với đường nét uyển
chuyển, bóng trăng lung linh; những pho tượng La Hán với sức sống nội tâm
dồi dào trong ánh sáng mờ ảo của chùa Tây Phương; hình ảnh một thiếu nữ vẻ
mặt thanh tú, trong sáng, duyên dáng ngồi bên cành hoa huệ (Tô Ngọc Vân)...đã
thực sự chộp được cuộc sống ngưng đọng trong băng vĩnh cửu... Nghe bản nhạc Du kích Sông Thao, ta hình dung qua âm thanh một dòng nước khi trôi lững lờ,
lúc cuồn cuộn chảy, dạt dào, đầy vơi như phong trào du kích hai bên triền sông.
Song những hình ảnh đó không hiện lên sống động như màn bạc và việc cảm
thụ những tác phẩm âm nhạc, hội hoạ hay điêu khắc ấy còn tuỳ thuộc vào khả
năng cảm thụ của mỗi người.
Văn học, với một từ vựng phong phú, giàu hình tượng, có khả năng phản
ánh những cái lắt léo, thầm kín nhất của đời sống xã hội. Những hình ảnh tưởng
tượng trên những trang viết lần lượt hiện lên trong đầu ta, rõ nét hay mờ nhạt
còn tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng, vào trình độ kiến thức và sự từng trải của
mỗi người. Sân khấu, một loại hình nghệ thuật gần với cuộc sống hơn một chút,
nhờ ở cảnh vật cụ thể và diễn xuất của những con người bằng xương bằng thịt.
Nhưng nó không thể bê núi, sông, máy bay và hàng sư đoàn quân lên một
không gian nhỏ hẹp. Sân khấu phải cần đạt tới những giả định, ước lệ. Cung
điện nguy nga, núi cao rừng rậm chỉ là những hình vẽ trên phông vải. Một viên
tướng đang hò hét, múa trước roi ngựa, dịch từng bước, khi khoan, khi mau
vòng quanh sân khấu, theo sau có dăm ba tên phất cờ, vác giáo. Theo ước lệ,
người ta có thể hiểu là ông ta đang cưỡi trên lưng ngựa chiến, dẫn đại đội binh
mã, tiến ra biên ải... sức thu hút của tuồng, chèo chủ yếu là làn điệu, ở vũ đạo
và đặc biệt ở những điệu bộ mang tính ước lệ khái quát cao.
Điện ảnh gần gũi với cuộc sống hơn cả. Tính chất này đã đòi hỏi phim từ
diễn xuất tới bối cảnh, đạo cụ, từ lời thoại đến tiếng động, màu sắc, phục trang,
hoá trang đều phải thực. Khán giả khó chấp nhận một bối cảnh giả, ước lệ như
trong sân khấu. Tuy nhiên, điện ảnh gần gũi với cuộc sống không ccó nghĩa là
luôn luôn y hệt như cuộc sống, không sao chép cuộc sống. Cũng giống như văn
học, những mảnh đời, những tính cách, những hoàn cảnh được người biện tập
kịch tập hợp lại chọn lọc tạo nên những tính cách điển hình, hoàn cảnh điển
hình mang tầm khái quát cao. Nội dung của một kịch bản điện ảnh được thể
hiện qua lời bình và tiếng, đó chính là ưu thế của điện ảnh. Điện ảnh là một nghệ thuật (nghệ thuật thứ bẩy) nên ít nhiều mang tính ước lệ: Cảnh chị Dậu
chạy khỏi nhà “Quan Cụ trong một đêm giông tố sấm sét... là cảnh được nâng
lên ở mức tượng trưng bao hàm ý sâu và gây súc động mạnh.
Điện ảnh là nghệ thuật tổng hợp, nó tiếp tục các phương pháp thể hiện
của các bộ môn nghệ thuật khác, nó tổng hợp những kinh nghiệm sáng tạo của
tất cả các nghệ thuật ra đời trước nó như sân khấu, văn xuôi, thơ ca, hội hoạ, âm
nhạc, kiến trúc... nó sử dụng khả năng biểu cảm trực tiếp của các nghệ thuật ra
đời trước nó.
Về mặt này, điện ảnh gắn với sân khấu. Sân khấu có sự tổng hợp những
phương tiện biểu đạt của văn chương, vũ đạo, hội hoạ, âm nhạc và hoà tan
chúng vào diễn xuất của diễn viên. Nhưng cũng có thứ không hoà tan, đó là
không gian ước lệ như các bộ môn sân khấu khác. Tính tổng hợp của điện ảnh
cao hơn hẳn. Điện ảnh tồn tại trong cả không gian và thời gian, sự tổng hợp của
không gian và thời gian là thực chất của điện ảnh. Ngoài ra việc sử dụng âm
nhạc trên phim, trừ một số trường hợp hãn hữu, cũng chỉ là những mẩu ngắn
không thành bài, tạo không khí cho một đoạn phim hay miêu tả nội tâm của
nhân vật. Hay bức hoạ “Một con chiên đau khổ cần chúa” khi vào “Sông Đông
êm đềm” cũng được chuyển động qua những dạng khác nhau. Đó là cảnh
Natalia bị Grigôri ruồng bỏ, quỳ ngoài trời trong đêm mưa tuyết. Chị giang đôi
tay quằn quại, thất vọng lên không trung mịt mùng, cầu van đấng tối cao hãy
trừng phạt người chồng bội bạc. Yếu tố vũ, từng đi vào sân khấu cổ truyền của
ta rất rõ, qua điệu bộ của tuồng (cách dịch bước, vuốt râu, rót rượu… hay qua
lối múa biểu hiện, múa trang trí của chèo (quẩy hàng, xoè quạt…) được điện
ảnh sử dụng nhưng ngọt ngào và kín đáo hơn, bé Nga (phim Chim Vành
Khuyên) nhảy dây 3 lần, mỗi lần được coi là một động tác vũ, biểu hiện một
trạng thái tâm tư nhất định: nhịp nhàng, thanh thoát khi vào đầu phim, lúc cô bé
còn đầy đủ tính hồn nhiên, tươi mát; lúng túng, vấp váp khi tên Pháp buộc nhân vật phải nhảy trước mặt ông bố bị trói. Rồi bỗng đường dây lại tung bay thoăn
thoắt khi cô bé nảy ra ý định chạy trốn để báo động cho đoàn cán bộ.
Điện ảnh học ở thơ phương pháp trữ tình. Điệng ảnh và thơ ca có cùng
chung một cố gắng bắt các vật thể sống động nói lên tính cách tự nhiên. Sự rung
động của thế giới sinh tồn được tái tạo, tăng lên và biến đổi, đó là sự dung hoà
lẫn nhau của hình ảnh và tư tưởng.
Bằng phương tiện kỹ thuật và những thủ pháp điện ảnh chúng ta có thể
diễn tả một cách đầy đủ và chân thật mọi sự vật, mọi thời gian, mọi thời đại,
mọi phức tạp của tâm tư, mọi tư tưởng và hiện tượng phức tạp nhất của thực tế
xã hội.
Như vậy, điện ảnh là một loại hình nghệ thuật tổng hợp và kế thừa những
tinh hoa của nền nghệ thuật trước đó, kỹ thuật và kỹ xảo điện ảnh là phương
tiện để thể hiện một tác phẩm điện ảnh. Điện ảnh là sự kết hợp giữa hai yếu tố
nghệ thuật và kỹ thuật với ý nghĩa đích thực của nó (phương tiện, máy quay
phim…), là sự kết hợp của cả hình và tiếng.

4.3, Đội ngũ những người làm điện ảnh
Cũng như sân khấu, một tác phẩm điện ảnh ra đời là sản phẩm sáng tạo
của cả một tập thể đạo diễn, diễn viên, biên kịch, người hoá trang, phụ trách ánh
sáng, người quay phim (trong sân khấu khong có người quay phim).
Vai trò của mỗi thành viên trong tập thể này đều quan trọng nhất là người
biên kịch - tác giả kịch bản – cơ sở chính của tác phẩm điện ảnh và người đạo
diễn - người khai phá và sáng tạo lại một lần nữa kịch bản, thể hiện kịch bản
băng những thước phim, những hình ảnh sáng, đầy ý nghĩa.
Đạo diễn là tác giả chính của bộ phim. Người đạo diện chỉ huy, hướng
dẫn thống nhất mọi hoạt động của diễn viên, quay phim, hoạ sỹ, làm nhạc sao
cho thực hiện đúng với kịch bản. Đạo diễn phải có tư chất của người viết, biết xử lý kịch bản. Công việc
đầu tiên của người đạo diễn là nhận thức, phân tích kịch bản văn học để xử lý
kịch bản văn học.
Kịch bản văn học là nền tảng của phim. Người đạo diễn phải biết xử lý,
biến nó thành của mình, làm sao cho mình “ngấm” kịch bản.
Để nhận thức, phân tích, xử lý kịch bản, người đạo diễn cần có 3 yếu tố
quyết định:
1. Khả năng cảm nhận (thuộc về thiên bẩm)
2. Tri thức, kinh nghiệm, vốn sống.
3. Nghề nghiệp (đào tạo, học tập)
Chính vì 3 yếu tố này mà cùng một kịch bản, giao cho các đạo diễn khác
nhau, phim sẽ khác nhau. Ý đồ hình thành trên cơ sở khả năng cảm nhận và tri
thức của mỗi người.

4.4, Các loại hình phim điện ảnh
- Phim truyện: Dùng cốt truyện hư cấu, dùng diễn viên đóng và tạo bối
cảnh giả (hoặc bớt cảnh thật có cải tạo theo yêu cầu của nghệ thuật), tạo ảo giác
giống cuộc đời thực.
- Phim khoa học: Mục đích của phim Khoa học là nhằm nâng cao nhận
thức khoa học. Do đó hạt nhân của phim là một vấn đề khoa học chủ đề của
phim là một vấn đề khoa học chủ đề của phim thường là những công trình khoa
học đứng đắn nhất.
- Phim hoạt hình: Không dùng người thật làm diễn viên, thay vào đó là
hình vẽ hoặc vật thể hoàn toàn bất động, áp dụng phương pháp quay phim từng
hình và chiếu lên màn ảnh liên tục (24, 25 hình/giây), tạo ra ảo giác chuyển
động. Chúng được các nhà làm phim “thổi hồn” vào và trở thành những nhân
vật mang tính cách, suy nghĩ... như con gnười.

- Phim tài liệu: Xông thẳng vào những vấn đề thiết thân nhất của cuộc
sống, tìm ra chủ đề và hình tượng ở đó. Qua việc ghi lại hình ảnh người thực
việc thực, tác giả nâng lên tầm khái quát hoá bằng hình tượng, phát hiện bản
chất có ý nghĩa triết học của hiện tượng. Sự kiện nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của
hiện tượng.

4.5. Kịch bản điện ảnh và vai trò của kịch bản trong điện ảnh
Những thước phim đầu tiên của Luymie (trừ phim “người tưới vườn”
nổi tiếng) đều không có yếu tố trình bày, diễn xuất kiểu sân khấu, chưa hề có
diễn viên, kịch bản cảnh trí là những thành phần tất yếu của phim truyện hiện
đại. Phải đến Meliex nhà hoạt động sân khấu - đạo diễn - diễn viên chủ rạp-
người sáng lập ra môn điện ảnh trình diễn, mới đưa diễn xuất của diễn viên lên
sân khấu màn ảnh. Lúc đó tiết mục điện ảnh mới được trình diễn, dàn dựng và
nghiền ngẫm, thay thế cho nguyên tắc phóng sự kiểu Lumiere “cuộc sống như
nó vốn có” và kịch bản ra đời.
Ngày nay trong điện ảnh hiện đại, một bộ phim không thể không có
kịch bản điện ảnh. Kịch là cái gốc, là bản thiết kế của bộ phim và phim là công
trình hình ảnh.

5, Kịch bản điện ảnh
5.1, Kịch bản phim truyện
Một kịch bản phải hội tụ đầy đủ những yêu cầu sau:
-Thứ nhất, phải có ý tưởng.
-Thứ hai, phải có cốt truyện là lịch sử các mối quan hệ mâu thuẫn được
thể hiện qua hành động, có các nhân vật xung đột, va chạm với nhau để bật ra
các tình huống khác nhau và thái độ của tác giả trước tình huống đó.
-Thứ ba, phải tạo ra được trạng thái tình cảm. Kịch bản phải có tính kịch. Đó là động lực để đẩy cốt truyện lên, tính
kịch nằm ở ngay trong mâu thuẫn mà mâu thuẫn thì đầy tính kịch.
Kịch bản phim truyện chi tiết đến từng cảnh quay

5.2, Kịch bản phim hoạt hình:
Cũng giống như kịch bản của phim truyện, những nhân vật không phải là
con người thực. Những hình vẽ, con rối, búp bê được nhà làm phim “thổi hồn”
và trở thành nhân vật mang tính cách, suy nghĩ như con người. Phim hoạt hình
có khả năng dẫn dắt người xem đi đến những thế giới kỳ lạ của những câu
chuyện dí dỏm, ngộ nghĩnh, ít thấy ở mảng đời dung tục.

5.3, Kịch bản phim khoa học
Mục đích của phim khoa học là nhằm nâng cao nhận thức khoa học cho
người dân. Kịch bản phim khoa học đơn giản không có hư cấu, không có mâu
thuẫn như trong phim, nhằm thể hiện những công trình khoa học một cách đúng
đắn nhất. Trong kịch bản, nhất thiết phải nêu rõ người chủ trì và phát minh ra
công trình khoa học ấy.

5.4, Kịch bản phim tài liệu
Phim tài liệu phản ánh người thực việc thực. Phim tài liệu đem đến cho
người xem những nhận thức và tư duy xuất phát từ hình ảnh có thực; nó nâng
sự kiện lên tầm khái quát bằng hình tượng, phát hiện bản chất có ý nghĩa triết
học của hình tượng, sự kiện, nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của hiện tượng. Đối
tượng của phim tài liệu là con người, sự kiện, sự việc có thật trong đời sống.
Do những đặc điểm trên nên kịch bản phim tài liệu không giống như
phim truyện, không có hư cấu và không có gợi ý diễn xuất dàn dựng. Kịch bản
phim tài liệu bao gồm kịch bản văn học và kịch bản phân cảnh. Kịch bản văn học được viết ra theo ý tưởng, cảm xúc, lập luận của người
biên kịch, nhưng chất liệu phải lấy từ cuộc sống hiện thực; các nhân vật, sự
kiện, sự việc được ghép nối theo đường dây liên tưởng, cảm xúc lập luận lôgic
của tác giả. Khác với phim truyện, phim tài liệu lựa chọn hình mẫu. Phim
truyện khắc hoạ tính cách nhân vật ở những giây phút cá biệt, còn phim tài liệu
nêu bật phẩm chất con người ở những giây phút tiêu biểu nhất, còn phim tài liệu
nêu bật phẩm chất con người ở những giây phút tiêu biểu nhất.
Kịch bản phim tài liệu mang tính giả định, dự kiến mọi sự kiện, nhưng
các dự kiến này đều có cơ sở để thực hiện. Vì vậy kịch bản phim tài liệu có thể
chi tiết đến từng cảnh quay.
Như vậy, kịch bản điện ảnh là một loại hình mới của văn học. Bởi vì, một
tác phẩm điện ảnh không phải là kết quả của một phút cảm hứng ngẫu nhiên
của một nghệ sỹ thiên tài nào. Nó là sản phẩm của một sự đầu tư lớn, cả về
nghệ thuật, khoa học kỹ thuật và kinh tế. Là kết quả của sự đóng góp của tập
thể các nghệ sỹ thuộc rất nhiều bộ môn nghệ thuật khác nhau: tác giả kịch bản
văn học, đạo diễn, hoạ sỹ, nhạc sỹ, diễn viên, quay phim, dựng phim, thu
thanh... Để có một bộ phim cần huy động cả một đội ngũ những nhà kinh tế
(chủ nhiệm phim), kỹ sư hoá, công nhân in tráng, thợ máy chiếu, thợ mộc, thợ
may... người ta đã tính đến những người tham gia quá trình sản xuất và phổ
biến phim tới người xem là 72 dạng nghề khác nhau. Bảy mươi hai dạng nghề
khác nhau xây dựng nên ngành điện ảnh. Nhưng “nghề” nào trong 72 nghề đó
góp phần quyết định trong nghệ thuật đưa thứ trò kỹ thuật giải trí chợ phiên
(thời kỳ đầu của điện ảnh) thành một nghệ thuật quan trọng? Đó là “nghề” sáng
tác kịch bản văn học của điện ảnh nghệ thuật- nghề thực hiện khâu đầu tiên của
một quá trình sáng tạo tập thể.
Nhà nghiên cứu, sáng tác và nhà sư phạm lão thành Xô Viết
I.Mannhêvích viết trong cuốn “Điện ảnh và văn học”.

“Nhu cầu về chất liệu văn học đã xuất hiện đồng thời với sự ra đời của
điện ảnh với tư cách một nghệ thuật trình diễn công cộng” Ngay những bộ
phim đầu tiên đã được quay theo một dự kiến có sẵn từ trước và đã có một cốt
truyện xác định. Mầm mống của kịch bản điện ảnh đã tồn tại ngay từ những
ngày đầu mới phát minh ra điện ảnh. Muốn truyền đạt được nội dung phức tạp
hơn món “kỹ thuật thần kỳ”- điện ảnh lúc ấy hướng trông vào văn học và đã trở
thành một nghệ thuật. Nó đòi hỏi ngày càng cao ở những người viết chuyên
môn cho màn ảnh.
Sự tham gia của những nhà văn chuyên nghiệp và những nhà biên kịch có
tài năng văn học thật sự đã nâng cao chất lượng của phim, đã buộc bản thân nền
điện ảnh phải tự nâng cao tầm mức khả năng thể hiện, phải hoàn thiện ngôn ngữ
của mình để có thể tiếp nhận những kịch bản có chất lượng.
Sự xuất hiện của văn học điện ảnh chân chính đã thúc đẩy sự chuyển biến
nhanh chóng của nền điện ảnh từ một trò giải trí kỹ thuật thành một nền nghệ
thuật thật sự. Và trong quá trình tự tiến lên của chính mình điện ảnh lại đòi hỏi
văn học cũng tự hoàn thiện thêm nữa, “điện ảnh” thêm nữa để trở thành một
loại hình hoàn toàn mới trong văn học, loại hình văn học điện ảnh.
Kịch bản văn học điện ảnh không giống một loại hình văn học nào sẵn có
bởi vì, nó mang hai yếu tố văn học và điện ảnh.
Kịch bản điện ảnh nhằm gửi đến người thưởng thức một (hay nhiều)
thông điệp nghệ thuật. Trong kịch bản có phần tác giả miêu tả người, việc, thiên
nhiên, có đối thoại giữa các nhân vật và có khi cả lời nói sau màn ảnh... Trong
kịch bản điện ảnh có mâu thuẫn, xung đột... Các yếu tố tự sự, trữ tình và kịch
đều được vận dụng trong kịch bản điện ảnh. Có thể đọc nó như một tác phẩm
văn học.
Nhưng nó được viết ra chủ yếu làm phim, cho nên nhất thiết phải có chất
điện ảnh: phải miêu tả những gì trông thấy được (để quay phim), có thể nghe
thấy được (để thu thanh), phải dung dị, trong sáng dễ hiểu (để đáp ứng nhu cầu của số đông người xem), phải tính toán kiềm chế mức sử dụng bối cảnh phức
tạp, cầu kỳ (để phù hợp với điều kiện kinh tế kỹ thuật), phải khống chế dung
lượng vừa đủ để làm phim với số giờ, phút kéo dài nhất định.
Định nghĩa về kịch bản điện ảnh, nhà lý luận V.Jđam nguyên hiệu trưởng
trường Đại học Điên ảnh Liên xô (cũ) nói:
“Kịch bản điện ảnh là điện ảnh ở dạng văn học hoặc là văn học trên
đường đi lên màn ảnh, cũng giống như kịch bản sân khấu là sân khấu ở dạng
văn học hoặc là văn học trên đường đi lên sân khấu”
Tóm lại, kịch bản điện ảnh là một loại hình mới của văn học bao gồm
hai yếu tố văn học và điện ảnh, chất liệu sáng tác của kịch bản xuất phát từ đời
sống xã hội- con người, cách thể hiện của nó dựa trên cơ sở hư cấu (đối với
phim truyện và phim hoạt hình) và sáng tạo của người nghệ sỹ.

6, Kich bản truyền hình
6.1, Sự ra đời và ưu thế của truyền hình
Mặc dù những chương trình truyền hình đầu tiên của những năm 30 của
thế kỷ này là các tác phẩm điện ảnh, nhưng nguồn gốc của truyền hình lại độc
lập với điện ảnh. Điện ảnh bắt đầu khai sinh với các bộ phim của anh em
Luymiêre (Pháp 1859), trong khi đó mầm mống của truyền hình lại lại là con
lắc truyền ảnh (1843). Mcụ đích của những thử nghiệm đầu tiên là những hình
ảnh tĩnh, có nghĩa là nó có mối liên hệ với nhiếp ảnh trong giai đoạn tiền thân
này. Có lẽ vì thế mà người ta cho rằng sự ra đời của vô tuyến truyền hình là một
bước tiếp nối từ nhiếp ảnh “kỹ thuật vô tuyến truyền hình thường được xem là
gắn liền với kỹ thuật nhiếp ảnh, nhờ vào sự thay đổi có tính chất cách mạng,
việc ghi nhận các hình ảnh bằng điện, điện tử hay từ tính, cho phép làm được
những “bức ảnh đóng hộp” dưới những hình thức khác nhau trên các băng nhựa
hay trong hộp (catset). Thế nhưng truyền hình hiện đại (truyền hình sử dụng
cable hay sóng vô tuyến) “màn ảnh nhỏ” đã kế thừa từ điện ảnh những hình ảnh chuyển động và thành quả phim có tiếng. Hơn thế nữa, truyền hình còn được
thừa hưởng những điểm mạnh của nền nghệ thuật thứ 7 như Montage, cỡ cảnh,
góc độ máy mà điện ảnh sơ khai đã phải mất hàng chục năm thử nghiệm mới
gặt hái được. Và ngôn ngữ truyền hình gần như đồng nhất và kế thừa ngôn ngữ
tạo hình điện ảnh. Lịch sử loài người là lịch sử của kế thừa. Điện ảnh ra đời là
sự kế thừa của nhiếp ảnh, sân khấu, văn học, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc, còn
truyền hình là sự kế thừa từ điện ảnh và báo chí. Như vậy truyền hình, một tờ
báo hình, dùng phương tiện ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh để chuyển tải thông
tin.
Mỗi một phương tiện truyền thông đều có một thế mạnh nhất định, nó bổ
sung hỗ trợ cho nhau trong sự nghiệp chung. Tuy nhiên trong ba loại báo noi,
báo viết, báo hình thì loại báo hình có thể hơn hẳn so với hai loại kia. Bởi ngoài
việc bình luận, giải thích các hiện tượng, sự việc, hoặc một vấn đề nào đó
truyền hình còn có hình ảnh sống động giúp người xem chứng kiến các sự kiện
đang diễn ra. Ví dụ như đoạn phim cảnh tai nạn giao thông, xác người mặt nát
bên vũng máu với chiếc xe máy bẹp dúm dưới gầm một chiếc xe ôtô, nhà làm
phim truyền hình đã quay ngay thực tế đang diễn ra tạo ra được những hình ảnh
đặc biệt nhất, tiêu biểu nhất nhằm làm rõ chủ đề của phim để người xem hiểu
được ý nghĩa của người định truyền đạt tới họ. Hay những cảnh đi lại mất trật tự
trên đường, vỉa hè trở thành vị trí thuận lợi để buôn bán, kinh doanh, họp chợ
làm ách tắc giao thông nghiêm trọng. Những hình ảnh sống động đó, phần nào
khiến cho người xem ý thức được tình trạng mất trật tự giao thông ở nước ta
hiên như thế nào. Đây cũng chính là ưu điểm của truyền hình mà các loại hình
báo chí khác không có được.
Hình ảnh phát sóng của truyền hình còn có khả năng vươn tới những
vùng xa xôi khác nhau trong mọi miền của cả nước một cách nhanh chóng. Nhờ
đó, mọi người dân dù ở đâu cũng có thể nhanh chóng biết được được những sự
việc ở rất xa một cách tường tận. Đây là thế mạnh nữa của loại hình báo hình so với các thể loại khác.Ưu thế về âm thanh, hình ảnh, phản ánh cuộc sống một
cách chân thật nhất đó cũng cho ta thấy quá trình làm ra một sản phẩm truyền
hình khá phức tạp và kỳ công.

6.2. Vai trò và đặc điểm của kịch bản truyền hình
Một phóng viên báo viết đi đến cơ sở, thu thập tin tức, viết tin bài. Hoạt
động sáng tác của nhà báo mang tính chất cá nhân. Họ viết những gì mình thu
nhận được ra giấy bằng phương tiện ngôn ngữ chữ viết đơn thuần. Và bài báo
hoàn thành, dẫu sao công việc cũng đơn giản.
Làm một chương trình truyền hình, cho dù là một bản tin ngắn cũng đều
phải qua các khâu: xác định đề tài, chủ đề, phác thảo nội dung, lựa chọn cách để
quay sao cho thich hợp với nội dung đó,... khâu cuối cùng là sắp xếp ghép nối
các cảnh thành những câu bình, nối tiếp nhau lôgic. Dựa trên ý nghĩa đề tài của
các cảnh, để viết lời bình.
Bất kỳ một tác phẩm truyền hình nào cũng là sản phẩm mang tính tập thể
cao, là kết quả đóng góp củ các thành viên: quay phim, biên tập, đạo diễn, dựng
phim.
Vậy làm thế nào để có sự thống nhất giữa các khâu và tập thể tác giả đó?
Về mặt này, truyền hình đã học tập điện ảnh: kịch bản truyền hình.
Một kịch bản có thể xem như xương sống của một sản phẩm truyền hình.
Mỗi thể loại của truyền hình lại có những kịch bản mang đặc trưng tính chất
riêng, phù hợp với thể loại đó. Chúng tôi xin bàn kỹ hơn về vấn đề này trong
chương sau.
Kịch bản báo chí truyền hình mang tính dự kiến, dự báo, chứ không phải
ở dạng ổn định. Bởi vì phần lớn các chi tiết trong kịch bản đều là những dự kiến
của phóng viên về những cái sắp xảy ra trong một tương lai gần. Mặt khác nó
không được phép hư cấu, vì vậy nó luôn dựa trên cơ sở người thật việc thật. Kịch bản truyền hình bao giờ cũng dự kiến được những nét chung nhất
của vấn đề mà nó đề cập. Các sự kiện, vấn đề, đặc biệt là những chi tiết của các
sự kiện,vấn đề mà truyền hình đề cập thường hay thay đổi. Thông thường cho
đến lúc dựng được một chương trình hay tác phẩm truyền hình thì bản thân
chương trình và tác phẩm đó có khác nhiều so với kịch bản lúc ban đầu. Vì thế
mà có nhiều kịch bản chỉ hoàn chỉnh sau khi đưa vào giai đoạn hậu kỳ.
Kịch bản báo chí truyền hình được xây dựng trên cơ sở các sự kiện có
thật và nghệ thuật “ráp nối” các sự kiện bằng tư duy logic của tác giả. Nó
thường được thể hiện dưới dạng: vừa là kịch bản văn học vừa là kịch bản đạo
diễn, trong kịch bản toát lên toàn bộ nội dung của tác phẩm và biện pháp thể
hiện tác phẩm. Kịch bản truyền hình được sử dụng tất cả các thủ pháp nghệ
thuật điện ảnh để thể hiện tác phẩm, nhưng chất liệu của nó là những sự kiện,
con người...có thật không được hư cấu. Hơn nữa, nó được viết ra ở dạng đề
cương và sử dụng trong phạm vi hẹp nên nó không được dùng để thưởng thức
như một tác phẩm kịch bản điện ảnh hay văn học nói chung.
Kịch bản, ngoài những tác dụng là “kim chỉ nam” cho hoạt động của
phóng viên và quay phim, là “linh hồn” cho tập thể làm phim, giúp cho tác
phẩm có chủ đề tư tưởng, đối tượng phục vụ, cách thể hiện tác phẩm rõ ràng
rành mạch,...kịch bản còn là căn cứ để phóng viên thu thập tài liệu, sử dụng có
hiệu quả tiếng động hiện trường, chọn âm nhạc phù hợp với nội dung tư tưởng,
tác phẩm...bởi vì xem kịch bản người phóng viên biết mình cần thu thập tài liệu
gì, phỏng vấn ai, câu hỏi như thế nào?... Hơn nữa, kịch bản còn chỉ cho ta thấy
cảnh nào, chi tiết nào của sự kiện là chính và hình ảnh nào, chi tiết nào là phụ
để từ đó xác định số cảnh cần quay và sắp xếp các sự kiện theo logic nhất định
(nếu là kịch bản chi tiết), qua kịch bản người quay phim còn có thể biết quay
cảnh nào, góc độ nào có hiệu quả cao... Nhờ có kịch bản mà toàn bộ tư liệu và
hình ảnh quay về, phóng viên đều có thể sử dụng vào các tác phẩm và đủ thể
hiện toàn bộ nội dung mà tác phẩm muốn trình bày. Xây dựng kịch bản là công việc đầu tiên sau khi xác định đề tài, chủ đề.
Việc xây dựng kịch bản chính là sự xác định và thống nhất hành động đối với
những việc cần làm của thành viên nói trên thông qua các bước quay, dựng và
viết lời bình. Đấy là kịch bản của một tác phẩm truyền hình.
Đối với cả một buổi truyền hình thì sao? Việc sắp xếp các chương trình
truyền hình, chương trình nọ lại tiếp nối chương trình kia một cách logic, và sử
dụng hình hiệu của các chương trình như thế nào, cần có một kịch bản không.
Theo chúng tôi, chắc chắn phải có kịch bản. Nhưng chức năng kịch bản này
không phải là sự thống nhất giữa các khâu và tập thể làm phim mà là sự thống
nhất giữa các chương trình truyền hình nhỏ (bông hoa nhỏ, thời sự, chuyên đề,
quảng cáo thời tiết) để tạo nên một tổng thể chương trình lớn của một tờ báo
hình với đúng nghĩa của nó.
Như vậy thể hiện bằng ngôn ngữ âm thanh, hình ảnh, truyền hình thực sự
mở rộng phạm vi của mình: không chỉ thông tin thời sự, chính trị, truyền hình
đã sang cả khu vực sân khấu và điện ảnh, những vở kịch, sân khấu cổ truyền
hay bộ phim. Giờ đây muốn xem, người ta không cần phải ra rạp xinê hay nhà
hát để thưởng thức. Màn ảnh nhỏ đã đáp ứng được nhu cầu này, nó thực sự là
người bạn thân thiết trong gia đình và đó là sự kỳ diệu và uyển chuyển của
truyền hình.
Một chương trình truyền hình là tổng hợp của nhiều thể loại báo chí và
loại hình nghệ thuật khác nhau (sân khấu, điện ảnh) nên kịch bản các thể loại
này cũng hết sức đa dạng. Tuy nhiên, truyền hình trước hết là một loại báo hình,
nó mang các đặc tính của báo chí. Do đó vấn đề kịch bản truyền hình, chúng tôi
sẽ giới thiệu chi tiết trên phương diện kịch bản của các thể loại báo chí như tin
truyền hình, phóng sự, bình luận, phỏng vấn...trong chương II.
Đối với báo viết và phát thanh công việc chuẩn bị kịch bản đã là quan
trọng, nhưng trong truyền hình thì kịch bản là cần thiết không thể thiếu được.
Bởi vì, ngôn ngữ của báo viết là dùng chữ viết để thể hiện (đôi khi còn dùng ảnh để minh hoạ), phát thanh thì dùng ngôn ngữ âm thanh để tác động vào thính
giác người nghe, nên khi đi thực tế phóng viên báo viết và phát thanh chủ động
hơn trong việc thu thập tài liệu và tiếp xúc đối tượng mà tác phẩm đề cập, hơn
nữa phương tiện kỹ thuật dùng trong quá trình làm tác phẩm gọn nhẹ và đơn
giản hơn. Còn trong truyền hình, do đặc trưng của ngôn ngữ truyền hình là
nghe- nhìn, nó không những chỉ thể hiện bằng lời bình, âm nhạc, tiếng động
hiện trường mà còn có cả hình ảnh. Đối với truyền hình, hình ảnh là yếu tố tác
động mạnh nhất tới người xem (60% nhìn và 30% nghe). Vì vậy khi đi thực tế
ngoài việc thu thập, khai thác tài liệu như báo viết, phát thanh, người phóng
viên truyền hình còn phải ghi được những hình ảnh về các sự kiện, vấn đề diễn
ra trong thực tế. Nếu không có sự chuẩn bị kịch bản thì làm sao phóng viên có
thể chủ động htực hiện được tác phẩm trong lúc hàng trăm chi tiết của cuộc
sống liên tục tác động vào nhãn quan, giác quan của phóng viên; không có kịch
bản làm sao người quay phim có thể hiểu được ý đồ phóng viên và nội dung tác
phẩm cần thể hiện để mà chọn lọc ghi lại những hình ảnh có giá trị, mang đầy
nội dung và ý nghĩa. Hơn nữa, một tác phẩm truyền hình không phải là sản
phẩm riêng biệt của người phóng viên như trên báo viết và phát thanh mà nó chỉ
là sản phẩm của cả một tập thể gồm: phóng viên, quay phim, ánh sáng, kỹ thuật,
lái xe... Vì vậy kịch bản ngoài tác dụng cho phóng viên quay phim còn là
“phương tiện” giúp cho nhóm làm phim hiểu được nội dung, hình thức tác
phẩm và nhìn vào kịch bản tự mỗi thành viên còn có thể biết công việc của bản
thân mình. Nhờ có kịch bản tập thể làm phim thực hiện công việc nhịp nhàng
ăn ý, và góp phần làm giảm bớt sự tốn kém vật chất cho đoàn làm phim.
Khác với kịch bản sân khấu, kịch bản truyền hình thường chỉ sử dụng
một lần giống như kịch bản phim. Bởi vì kịch bản trong truyền hình và kịch bản
điện ảnh sau khi dàn dựng thành một tác phẩm hoàn chỉnh có thể phát sóng
hoặc chiếu phim được coi như kịch bản đã hoàn thành “nhiệm vụ”. Muốn xem
lại tác phẩm người ta chỉ việc đem phát sóng hoặc chiếu lại tác phẩm đã được dàn dựng và sử dụng lần trước chứ hiếm khi mang kịch bản đó được dàn dựng
lại. Nói một cách khác, sau khi kịch bản truyền hình hoặc phim truyện được sử
dụng, người ta đã có một “thành phẩm” hoàn chỉnh và muốn xem lại người ta
đem “thành phẩm” đó ra phát sóng và chiếu lại. Còn một kịch bản sân khấu thì
được nhiều đoàn sân khấu dàn dựng và biểu diễn, đồng thời sau buổi biểu diễn
thì “thành quả” chỉ còn lại ở tâm trí những người xem vở diễn, muốn trình diễn
cho những khán giả xem thì lại dùng kịch bản đó dàn dựng từ đầu. Nói cách
khác mỗi lần biểu diễn là một lần các nghệ sỹ sân khấu lại sử dụng kịch bản
một lần và một kịch bản sân khấu có thể được lưu truyền từ thời đại này qua
thời đại khác. Ví dụ như các vở bi, hài kịch của Sừchxpia.

6.3, Phóng viên biên tập tác phẩm truyền hình
Phóng viên biên tập là người chịu trách nhiệm chính, đảm nhận những
công việc quan trọng, nặng nề trong quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí truyền
hình. Trong hàng loạt công việc người biên tập phải làm, việc quan trọng đầu
tiên là viết kịch bản hay làm đề cương cho tác phẩm. Dù là kịch bản hay đề
cương thì cũng phải xác định rõ đề tài tư tưởng, chủ đề cho tác phẩm.
John Hohenberg, một tác giả người Mỹ đã viết:
“Người
Về Đầu Trang Go down
http://09bc.roll.tv
 
KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
......::::::: DIỄN ĐÀN LỚP 11LTBC - RTC2-VOV:::::::.......... :: Thông Báo của Diễn Đàn :: Báo Truyền hình-
Chuyển đến